Điều trị ung thư phổi di căn não
Di căn não là một biến chứng thường gặp trong nhiều loại ung thư, nhưng chúng đặc biệt phổ biến ở những bệnh nhân bị ung thư phổi. Khoảng 15 – 20% bệnh nhân ung thư phổi phát triển di căn não. Tỷ lệ di căn não não cao hơn ở ở bệnh nhân có đột biến gen EGFR và tái sắp xếp ALK, trong đó 50 – 60% di căn não trong quá trình bệnh.
Hướng dẫn điều trị K phổi di căn não:
– Đối với bệnh nhân có khối u não lớn gây ra triệu chứng nặng hoặc nguy cơ gây thoát vị: Ưu tiến phẫu thuật, điều trị toàn thân sau đó phụ thuộc vào đặc điểm phân tử của khối u.
– Đối với bệnh nhân không có triệu chứng nặng hoặc nguy cơ thoát vị: Việc điều trị phụ thuốc vào bệnh nhân có đột biến gen và có sẵn thuốc ức chế tyrosine kinase (TKI) hay không.
1. Đối với bệnh nhân có đột biến gen EGFR:
– Đối với bệnh nhân di căn não, nên điều trị ban đầu bằng osimetinib thay vì các thuốc TKIs thế hệ 1, 2 (Erlotinib, Gefitinib, Afatinib) hay hóa chất.
– Đối với bệnh nhân đang dùng thuốc TKI EGFR thế hệ 1, 2 mà tiến triển cả trên não hoặc ngoài não: Sinh thiết mô hoặc sinh thiết lỏng để tìm đột biến kháng thuốc T790M. Nếu có đột biến T790M, điều trị osimetinib. Nếu T790M( – ), xạ trị não + hóa chất.
– Đối với bệnh nhân chỉ tiến triển di căn não: Thay thuốc TKIs EGFR thế hệ 1, 2 bằng osimetinib. Một cách khác là xạ trị não + tiếp tục thuốc TKIs EGFR thế hệ 1, 2.
2. Đột biến tái sắp xếp ALK
– Điều trị ban đầu bằng alectinib hoặc brigatinib. Nếu không có alectinib hoặc brigatinib, thay thế bằng ceritinib.
– Trong trường hợp kháng crizotinib, điều trị alectinib hoặc brigatinib thay vì hóa trị, nhưng ceritinib là một lựa chọn thay thế có thể chấp nhận được.
– Nếu đang dùng ceritinib, brigatinib, alectinib tiến triển di căn não: Xạ trị não + điều trị tiếp ceritinib, brigatinib, alectinib hoặc chuyển sang thuốc ALK TKIs thế hệ thứ 3 (lorlatinib).
– Nếu đang dùng ceritinib, brigatinib, alectinib tiến triển di cả não và ngoài não: Chuyển sang lorlatinib.
Trình tự điều thuốc TKI (thuốc đích) và biện pháp tại chỗ: Nếu bệnh nhân được phẫu thuật, thuốc đích được dùng sớm nhất là sau phẫu thuật 1 – 2 ngày. Nếu xạ phẫu hoặc xạ trị toàn não: Ngừng thuốc đích, dùng lại khi kết thúc xạ được 1 – 2 ngày.
3. Bệnh nhân không có đột biến gen
Vì hóa chất ít tác dụng với tổn thương não, vì vậy đối với bệnh nhân ung thư phổi di căn não có thể trạng tốt, không đột biến gen, đa số bệnh nhân được xạ trị não trước + hóa chất toàn thân. Một số trường hợp đặc biệt:
– Ung thư phổi tiến triển ngoài não rầm rộ + di căn não không triệu chứng: Hóa trị trước thay vì xạ trị.
– Đối với bệnh nhân thể trạng kém: Chăm sóc giảm nhẹ, xương sống là thuốc steroid.
– Đối với bệnh nhân có triệu chứng nghiêm trọng hoặc nguy cơ thoát vị: Phẫu thuật
– Xạ phẫu ưu tiên hơn xạ trị toàn não khi tổn thương di căn não giới hạn, kích thước < 3cm.
BS.Trịnh Thế Cường
✽✽✽✽✽✽