Những tiến bộ mới nhất trong điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ 2021

Ung thư phổi là loại ung thư được chẩn đoán nhiều thứ hai sau ung thư vú. Nó được phân thành ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ, trong đó ung thư phổi không tế bào nhỏ chiếm xấp xỉ 85% các trường hợp, 15% còn lại là ung thư phổi tế bào nhỏ.

Trong năm 2019 ở mỹ có xấp xỉ 30000 bệnh nhân mới được chẩn đoán mắc ung thư phổi tế bào nhỏ và gần như tất cả các trường hợp này nguyên nhân mắc bệnh đều được quy cho là do hút thuốc – tỉ lệ mắc bệnh nói chung có xu hướng giảm nhưng với phụ nữ lại đang có xu hướng tăng với tỉ lệ mắc bệnh ở cả nam và nữ là gần như nhau 1:1

Ung thư phổi tế bào nhỏ được phân chia thành 2 giai đoạn là giai đoạn hạn chế (bao gồm giai đoạn từ 1 đến 3) và giai đoạn mở rộng (bao gồm giai đoạn 4). Việc phân chia giai đoạn này dựa vào khám xét bệnh nhân như CT ngực, bụng, MRI não… giai đoạn hạn chế chiếm xấp xỉ 1/3 các trường hợp ung thư phổi tế bào nhỏ, 2/3 còn lại là giai đoạn mở rộng.

Đặc điểm của ung thư phổi tế bào nhỏ là tính nhân đôi CỰC NHANH của tế bào ung thư, bệnh tiến triển một cách hung hãn và vô cùng nhanh chóng dẫn đến việc sớm di căn của ung thư, ung thư phổi tế bào nhỏ cũng tương đối nhạy với hoá trị và xạ trị. Tuy nhiên bất chấp việc đáp ứng trong thời gian đầu điều trị đó thì thời gian ung thư quay trở lại là rất nhanh và thời gian sống còn toàn bộ của bệnh nhân vẫn còn thấp.

Nói chung, trừ khi bệnh ở giai đoạn 1 hoặc 2 – giai đoạn mà phẫu thuật vẫn còn hiệu quả thì mục tiêu điều trị lúc đó là chữa khỏi, còn ở giai đoạn mở rộng thì mục tiêu khi ấy chỉ dừng lại ở việc kiểm soát bệnh.

ung thư phổi tế bào nhỏ

Tất cả các bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ đều phải được điều trị toàn thân với hoá trị hoặc hoá trị gộp miễn dịch để giảm nguy cơ tái phát. Mặc dù khối u đã được loại bỏ bởi phẫu thuật, thì việc dùng hoá trị bổ trợ sẽ giúp giảm nguy cơ tái phát. Ở những người không trải qua phẫu thuật cắt bỏ do một nguyên nhân y khoa hoặc do bệnh nhân từ chối, hoặc do bệnh tiến triển cục bộ nhanh chóng thì việc hoá trị kết hợp đồng thời với xạ trị sẽ cho thấy cải thiện thời gian sống còn và theo báo cáo gần đây thì đồng thời kết hợp hoá trị và xạ trị 2 lần hằng ngày sẽ là lựa chọn được ưa thích hơn của các chuyên gia so với đồng thời kết hợp hoá trị với xạ trị 1 lần hằng ngày. Đối với những bệnh nhân ở giai đoạn muộn thì việc kết hợp hoá trị với miễn dịch cho thấy cải thiện thời gian sống còn toàn bộ so với việc dùng đơn độc một mình hoá trị.

Những phương pháp điều trị mới nhất 2021

Mặc dù có những tiến bộ vũ bão ở 3 thập kỷ qua trong lĩnh vực việc điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ – nhưng điều tương tự đã KHÔNG DIỄN RA trong ung thư phổi tế bào nhỏ, khi mà những tiến bộ và tìm tòi còn rất hạn chế.

Tuy nhiên, tại 2 hôi nghị ung thư phổi hàng đầu ELCC 2021 và ASCO 2021 đã cho thấy những tín hiệu rất đáng mừng, đánh dấu việc điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ có thể thay đổi nhanh chóng trong vòng từ 3 đến 5 năm tới.

ELCC 2021 thông báo những tin tức cực kỳ đáng chú ý về những tiến bộ trong nghiên cứu ung thư phổi tế bào nhỏ, cụ thể trong lĩnh vực di truyền biểu sinh (di truyền ngoại) thì sự phát triển của tẩy xoá biểu sinh – các enzymes có khả năng loại bỏ các dấu vết biểu sinh với việc đảo ngược ảnh hưởng của chúng lên các biểu hiện gen – hướng đi này đang được dùng để điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ.

Đối với ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn mở rộng, tại điều trị bước 1, Ponce Aix và các cộng sự đã thảo luận phase 1b của nghiên cứu NCT03850067 về việc CC90011 gộp với etoposide và cisplatin hoặc carboplatin (EP), CC90011 là một tẩy xoá biểu sinh của LSD1 – chất ức chế này có khả năng làm giảm biểu hiện của các gen thúc đẩy phát triển khối u và làm tăng biểu hiện của các gen ức chế khối u, CC90011 có độc tính giới hạn liều liên quan tới đường máu như giảm bạch cầu và giảm tiểu cầu. Trong tổng số 24 bệnh nhân tham gia nghiên cứu có 19 người đã được đánh giá – tất cả họ đều cho thấy đáp ứng một phần. Liều khuyến cáo ở phase 2 của CC90011 gộp với EP là 40mg – nghiên cứu vẫn đang được tiến hành.

Tiến bộ công nghệ đã mang tới việc sử dụng ngày càng nhiều xét nghiệm DNA trong nhiều loại khối u giúp cho việc điều trị bệnh nhân được tốt hơn, đặc biệt việc tăng cường sử dụng xét nghiệm RNA và tập trung vào CÁC TẾ BÀO KHỐI U LƯU THÔNG đang bắt đầu cho thấy những kết quả hứa hẹn. Trong ung thư phổi tế bào nhỏ, các tế bào khối u lưu thông (CTC) đang được giới chuyên gia công nhận là có ý nghĩa tiên lượng, thật vậy, bắt đầu vào năm 2012, Hou cùng các cộng sự đã nhận thấy rằng sự thay đổi số CTC sau 1 chu kỳ điều trị so với ban đầu trước khi điều trị là một yếu tố tiên lượng đáng tin cậy đối với ung thư phổi tế bào nhỏ – tại mốc 50 CTC có một sự thay đổi đáng kể liên quan tới thời gian sống không bệnh tiến triển(PFS) và thời gian sống còn toàn bộ(OS), cụ thể là những người có ÍT hơn 50 CTC/7.5ml máu có trung vị của PFS và OS lần lượt là 8.8 tháng và 11.5 tháng, còn những người có NHIỀU hơn 50 CTC/7.5ml máu thì trung vị của PFS và OS lần lượt là 4.6 tháng và 5.4 tháng.

Tại nghiên cứu CON – VERT(NCT00433563) dữ liệu cho thấy những người có ít hơn 15 CTC thì trung vị của PFS và OS lần lượt là 19 tháng và 26.7 tháng, còn những người có nhiều hơn 15 CTC thì trung vị của PFS và OS lần lượt là 5.5 tháng và 5.9 tháng.

Trong lĩnh vực gen học chức năng, đã có những tiến bộ trong việc xác định và phân loại ung thư phổi tế bào nhỏ thành các dạng nhỏ hơn, cụ thể là tại hội nghị ASCO 2021 Puri và các cộng sự đã trình bày tóm tắt về việc phân loại này

Tóm lại, những tiến bộ trong điều trị đang diễn ra trên nhiều mặt trận trong cuộc chiến chống lại ung thư phổi tế bào nhỏ và như mọi khi, các thử nghiệm lâm sàng sẽ dẫn đường cho việc điều trị – tính đến thời điểm 2021 này, tại mỹ hiện có 112 thử nghiệm lâm sàng dành cho ung thư phổi tế bào nhỏ đang diễn ra.

Chiến Thắng Ung Thư

Đọc Thư Viện Ung Thư Online

✽✽✽✽✽✽